Nếu quy định mới được thông qua, sẽ có khoảng 4.000 trang trại chăn nuôi lợn và bò phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính. Mỗi trang trại sẽ phải chi ra 100-150 triệu đồng/năm để thực hiện việc này.
Phát thải khí nhà kính trong chăn nuôi tăng mạnh
Ở nước ta, chăn nuôi đóng vai trò rất quan trọng. Sản phẩm của ngành này không những đáp ứng nhu cầu thực phẩm của 100 triệu dân mà còn liên quan đến sinh kế của khoảng 6 triệu nông dân

Thế nhưng, với quy mô đàn lợn khoảng 28-29 triệu con, đàn gia cầm khoảng 545 triệu con, đàn trâu 2,3 triệu con, đàn bò (tính cả bò sữa) 6,7 triệu con, đàn dê và cừu 2,9 triệu con,… chăn nuôi là ngành phát thải khí nhà kính ra môi trường lớn thứ hai trong lĩnh vực nông nghiệp.
Theo đó, phát thải khí nhà kính từ chăn nuôi gồm hai nguồn chính: Khí metan từ dạ cỏ của động vật nhai lại và khí CH4, N2O từ phân động vật.
Thông tin từ Bộ NN-PTNT, tổng lượng chất thải chăn nuôi năm 2022 lên đến 81,8 triệu tấn. Trong đó, chăn nuôi lợn chiếm 44,9%, bò thịt chiếm 26,7%, trâu chiếm 15,3%, gia cầm 8,1%, bò sữa 4,9%; chất thải lỏng phát sinh từ hoạt động chăn nuôi năm 2022 ước khoảng 379 triệu m3. Tuy nhiên, chỉ khoảng 50% chất thải rắn và 20% chất thải lỏng được xử lý trước khi thải ra môi trường.
Theo kết quả điều tra năm 2016, lượng khí nhà kính phát thải từ dạ cỏ của động vật nhai lại chiếm tỷ trọng cao nhất, 444.000 tấn khí CH4 (tương đương 12,42 triệu tấn CO2e), tiếp đến là phát thải từ phân động vật bao gồm 11.000 tấn khí N2O (tương đương 2,97 triệu tấn CO2e) và 112.000 tấn khí CH4 (tương đương 3,13 triệu tấn CO2e).
Theo danh mục hệ số phát thải phục vụ kiểm kê khí nhà kính của Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố cuối năm 2022, trong số các động vật có phát thải khí metan từ dạ cỏ, bò sữa gây phát thải khoảng 78kg khí CH4/con/năm, trâu khoảng 76kg khí CH4/con/năm, bò thịt 54kg CH4/con/năm, ngựa 18kg CH4/con/năm, dê và cừu 5kg CH4/con/năm, lợn 1kg CH4/con/năm.
Tuy nhiên, do số lượng chăn nuôi bò thịt và trâu ở nước ta khá lớn nên lượng phát thải khí metan hàng năm từ bò thịt lên tới 250.000 tấn/năm, trâu với 138.000 tấn và bò sữa khoảng 20.000 tấn/năm.
Tương tự, nếu tính trung bình khối lượng lợn tiêu chuẩn xuất chuồng là 90kg, một con lợn phát thải khoảng 438kg CO2 tương đương. Thông thường, một hộ gia đình sẽ xuất chuồng ít nhất 2 lứa lợn/năm, nếu quy mô chăn nuôi trung bình từ 3.000 đầu lợn sẽ phát thải xấp xỉ 3.000 tấn CO2 tương đương/năm.
Cũng theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, phát thải khí nhà kính trong chăn nuôi cũng rất lớn, tương đương 11,15 triệu tấn CO2e/năm, chiếm 17,2% tổng lượng phát thải khí nhà kính trong ngành nông nghiệp, chủ yếu là CH4 và NO2 từ quá trình lên men tiêu hóa của động vật nhai lại (7,7 triệu tấn CO2e) và từ quản lý chất thải chăn nuôi (5,45 triệu tấn COze). Trung bình mỗi đầu gia súc nhai lại (bò sữa, bò thịt, trâu, cừu, dê, ngựa) phát thải 0,82 tấn CO2 từ quá trình lên men tiêu hóa và nhất là 0,043 tấn CO2 từ mỗi tấn chất thải chăn nuôi lợn, bò, gia cầm.
PGS. TS. Cao Thế Hà, Trung tâm Green Cycle JC, Trung tâm CETASD, Trường Đại học Việt – Nhật, Đại học Quốc gia Hà Nội dẫn Báo cáo Kiểm kê phát thải KNK BUR3(Biennial Update Report), Bộ TN&MT năm 2020: Năm 2016 phát thải KNK khối Nông-Lâm-Ngư nghiệp chiếm 13,91% cả nước. Riêng ngành chăn nuôi chiếm 42,01% phát thải trong toàn ngành nông nghiệp, trong đó KNK từ phân thải chiếm 1/3.
Báo cáo kiểm kê quốc gia khí nhà kính gần đây cho thấy, phát thải khí nhà kính từ ngành chăn nuôi đang có xu hướng tăng qua các năm. Cụ thể, năm 2016, phát thải khí nhà kính từ ngành chăn nuôi là 18,5 triệu tấn CO2 tương đương, năm 2018 đã tăng lên mức 22,2 triệu tấn CO2, năm 2020 con số phát thải đã lên tới hơn 30,84 triệu tấn CO2.

Hơn 4.000 trang trại chăn nuôi sẽ phải kiểm kê khí nhà kính
Việc kiểm kê khí nhà kính đối với lĩnh vực chăn nuôi phù hợp với Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 05/08/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan đến năm 2030. Tại dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật) có đề xuất danh mục 467 cơ sở trang trại chăn nuôi quy mô lớn đúng đối tượng có mức phát thải theo quy định Nghị định 06 (chăn nuôi lợn quy mô lớn hơn 1.200 đơn vị vật nuôi tương đương hơn 12.000 con lợn/năm có mức phát thải tương ứng trên 6.000 tấn CO2/năm và cơ sở chăn nuôi bò quy mô lớn hơn 700 đơn vị vật nuôi tương đương hơn 1.000 con bò có mức phát thải tương đương 4.000 tấn CO2/năm).
Tại Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 7/1/2022 của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã bổ sung ngành chăn nuôi (lợn, bò) vào danh mục cơ sở phải kiểm kê khí nhà kính.
Theo đóng góp do quốc gia tự quyết định của Việt Nam, tiềm năng của các biện pháp giảm phát thải liên quan đến ngành chăn nuôi trong cả giai đoạn 2021-2030 là 152,53 triệu tấn CO2 tương đương, chiếm 54% tổng tiềm năng giảm phát thải của lĩnh vực nông nghiệp.

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, xu hướng sản xuất xanh đang phát triển ở mức độ toàn cầu. Do đó, kiểm kê khí nhà kính và giảm phát thải trong chăn nuôi là việc phải làm.
Trên cơ sở đó, theo đại diện Cục Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Kiểm kê khí nhà kính nhằm xây dựng bộ dữ liệu khí nhà kính cho ngành, làm tiền đề nghiên cứu, phát triển thuận lợi cho các dự án giảm phát thải. Hơn nữa, thị trường các-bon có thể khuyến khích các dự án giảm thiểu, nâng cao năng lực cạnh tranh và kích thích các ngành nghề giảm phát thải liên quan của doanh nghiệp giảm phát thải, thu hút vốn FDI nước ngoài và đầu tư vào dự án BĐKH. Đối với ngành chăn nuôi, nhiệm vụ này đã có lộ trình giảm phát thải từ rất sớm cho quy mô nông hộ, không những giảm phát thải mà còn thu được lợi nhuận từ bán tín chỉ giảm phát thải và đến nay đang bước đầu nghiên cứu cho quy mô trang trại:
Chia sẻ về vấn đề này, PGS. TS. Cao Thế Hà cho biết: Như đã nói ở trên, vấn đề phát thải khí nhà kính chỉ tính riêng lĩnh vực chăn nuôi chiếm 42,01% toàn khối ngành nông nghiệp, chưa tính tới 0,50% do phát thải N2O trong xử lý phân-nước thải. Chính phủ Việt Nam đã có cam kết quốc tế tại COP 26 tới năm 2050 sẽ đưa phát thải KNK về Net Zero.
Một trong những công tác đầu tiên để thực hiện cam kết này là công tác kiểm kê phát thải KNK. Đây là công việc bắt buộc để xác định các nguồn phát thải/tiềm năng giảm phát thải KNK. Việt Nam đã 3 lần nộp báo cáo kiểm kê KNK hai năm một lần cho IPCC, theo đó nguồn phát thải KNK số 1 ở Việt Nam là Khối ngành Năng lượng (đóng góp 65,0%), thứ hai là Khối Công nghiệp và sử dụng sản phẩm (IPPU 14,6%), thứ ba là Nông Lâm nghiệp và Sử dụng đất (AFOLU 13,9% và thứ tư là Chất thải (Waste 6,5%).
GDP đầu người của Việt Nam năm 2023 ở mức 4300 $/đầu người, trung bình của thế giới là 13.125 $/đầu người. Để Việt Nam phát triển và vượt con số GDP/đầu người ở trên, phần đóng góp của khối Năng lượng sẽ phải tăng, khối AFOLU và Chất thải sẽ phải giảm. Hiện phát thải Khối Nông nghiệp của Việt Nam thấp hơn của thế giới, tuy nhiên có tiềm năng giảm. Hiện Bộ NN & PTNT đã có Chương trình giảm phát thải KNK trong ngành lúa gạo. Chăn nuôi đóng góp thứ hai trong Nông nghiệp về phát thải khí nhà kính nhưng cũng có tiềm năng giảm phát thải thông qua việc áp dụng các công nghệ xử lý chất thải theo hướng Kinh tế tuần hoàn – Thu hồi tài nguyên.
Ông Nguyễn Xuân Dương – Chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi Việt Nam – cũng khẳng định, giảm phát thải nhà kính và bảo vệ tầng ozon là chủ trương đúng của Nhà nước nhằm hiện thực hóa các cam kết về giảm phát thải khí nhà kính, chống biến đổi khí hậu toàn cầu.
Song, nếu áp dụng ngay với các trang trại chăn nuôi lợn và bò ở nước ta thì chưa phù hợp. Ông Dương cho biết, mới đây, hiệp hội này đã kiến nghị Chính phủ chưa đưa lĩnh vực chăn nuôi vào diện phải kiểm kê khí nhà kính; nếu làm thì theo hướng tự nguyện, không bắt buộc.
Theo dự thảo, các trang trại chăn nuôi quy mô 3.000 con lợn thường xuyên, còn với bò là 1.000 con trở lên sẽ phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính. Tức, sẽ có hơn 4.000 trang trại chăn nuôi lợn và bò phải thực hiện công việc này, tốn kém khoản chi phí rất lớn.
Chỉ riêng thực hiện kiểm kê khí nhà kính, mỗi trang trại phải chi từ 100-150 triệu đồng/năm. Đáng chú ý, hầu hết trang trại ở nước ta chưa thể thực hiện tự kiểm kê vì quá phức tạp.
Chưa kể, các doanh nghiệp, trang trại sau khi kiểm kê còn phải thực hiện giảm phát thải theo hạn ngạch được giao. Nếu không đạt sẽ bị xử lý vi phạm hoặc phải mua tín chỉ carbon bù vào. Như vậy sẽ làm tăng giá thành sản phẩm chăn nuôi, giảm sức cạnh tranh trên thị trường.
Sản xuất chăn nuôi trong nước là lĩnh vực đang gặp nhiều khó khăn, nhiều ý kiến cho rằng, việc đưa các cơ sở chăn nuôi vào danh mục phải kiểm kê khí nhà kính lúc này là chưa phù hợp. Vậy giải pháp nào phù hợp để gỡ khó cho ngành chăn nuôi vừa phát triển bền vững những vẫn đảm bảo môi trường, thực hiện hiệu quả việc giảm phát thải, góp phần thực hiện mục tiêu Net Zero của Việt Nam vào năm 2050 như cam kết tại COP 26?
Kiến nghị lùi thời gian kiềm kê khí nhà kính đối với ngành chăn nuôi và cơ sở chăn nuôi
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, căn cứ quy định tại Điều 6 về danh mục lĩnh vực, cơ sở phải kiểm kê khí nhà kính (sau đây gọi là cơ sở phải kiểm kê KNK), Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính. Danh mục bao gồm các cơ sở phải kiểm kê khí nhà kính thuộc các ngành Công thương, Giao thông vận tải, Xây dựng, Tài nguyên và môi trường có mức phát thải khí nhà kính hằng năm từ 3.000 tấn CO2 tương đương trở lên; các nhà máy nhiệt điện, cơ sở sản xuất công nghiệp, tòa nhà thương mại, công ty kinh doanh vận tải hàng hoá tiêu thụ hằng năm 1.000 tấn dầu tương đương (TOE) trở lên; các cơ sở xử lý chất thải rắn có công suất hoạt động hằng năm trên 65.000 tấn.
Trong quá trình rà soát và cập nhật danh mục nêu trên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề xuất bổ sung cơ sở chăn nuôi (lợn, bò) quy mô lớn vào danh mục các cơ sở phải kiểm kê KNK. Sau khi nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, đánh giá hiện trạng trong nước và trên cơ sở ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương thống nhất đề xuất bổ sung ngành chăn nuôi vào danh mục cơ sở phải kiểm kê KNK. Dự thảo sửa đổi Nghị định số 06/2022/NĐ-CP đã bổ sung thêm điểm đ khoản 1 Điều 6: “Các cơ sở chăn nuôi có quy mô hằng năm từ 1.000 con bò trở lên hoặc 3.000 con lợn trở lên”.
Dự thảo danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính cập nhật dự kiến sẽ được Chính phủ ban hành trong năm 2024, trong đó cũng đã đề xuất danh sách 341 cơ sở chăn nuôi đáp ứng điều kiện trên.
Trong văn bản góp ý, Hội chăn nuôi Việt Nam cho biết, mặc dù trước đây vì muốn chia sẻ với mục tiêu Quốc gia trong việc kiểm soát khí phát thải mà Hội Chăn nuôi Việt Nam cho là có thể đưa lĩnh vực chăn nuôi vào diện kiểm kê khí nhà kính. Nhưng qua khảo sát thực tế, tổ chức các cuộc hội thảo tham vấn các chuyên gia, doanh nghiệp, người chăn nuôi và nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm các nước xung quanh, Hội thấy rằng chưa thực sự phù hợp nếu Việt Nam đưa lĩnh vực và cơ sở chăn nuôi vào diện kiểm kê khí nhà kính trong thời điểm hiện nay.
Theo Hội Chăn nuôi Việt Nam, giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon là chủ trương đúng của Nhà nước nhằm hiện thực hóa các cam kết về giảm phát thải khí nhà kính, chống biến đổi khí hậu toàn cầu.

Tuy nhiên, so với các nước công nghiệp phát triển thì không gian giảm phát thải nhà kính của Việt Nam còn khá rộng, có nhiều lĩnh vực có thể tham gia, đảm bảo để Việt Nam sẽ đạt được những cam kết về giảm phát thải nhà kính, như công nghiệp khai khoáng, luyện thép, xây dựng, giao thông, trồng rừng, canh tác lúa…
Những lĩnh vực này vừa có tiềm năng, lợi nhuận cao, vừa được Nhà nước hỗ trợ như trồng rừng hay dự án thâm canh 1 triệu ha lúa chất lượng và giảm phát thải tại ĐBSCL.
Trong khi đó, sản xuất chăn nuôi ở nước ta là lĩnh vực đang gặp rất nhiều khó khăn so với các ngành kinh tế khác và so với chính lĩnh vực chăn nuôi của các nước phát triển. Do đó, việc đưa các cơ sở chăn nuôi vào Danh mục phải kiểm kê khí nhà kính lúc này là chưa phù hợp, thiếu khả thi, chưa có sự chia sẻ của Nhà nước với lĩnh vực đang gặp quá nhiều rủi ro trong hội nhập.
Từ những lý do nêu trên, Hội Chăn nuôi Việt Nam đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường chưa đưa lĩnh vực, cơ sở chăn nuôi vào danh mục phải kiểm kê khí nhà kính trong giai đoạn hiện nay, ít nhất cũng là từ nay tới năm 2027.
Ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội chăn nuôi Việt Nam đã nêu một loạt các bất cập nếu áp dụng ngay việc kiểm kê khí nhà kính đối với cơ sở chăn nuôi:
Đầu tiên, phát sinh chi phí sản xuất, tăng giá thành sản phẩm chăn nuôi trong nước, vốn hiện nay đã đang rất cao so với các nước phát triển. Bởi, chỉ tính riêng kinh phí chi cho hoạt động kiểm kê, hàng năm mỗi cơ sở chăn nuôi đã mất từ 100-150 triệu đồng; chưa kể các cơ sở thuộc diện này phải thực thi hạn ngạch buộc phải cắt giảm khí nhà kính hàng năm.
Thứ hai, nếu không đạt (về cơ bản là không đạt) sẽ bị xử lý vi phạm, gây không ít khó khăn cho người chăn nuôi và phát sinh các tiêu cực không đáng có.
Thứ ba, số lượng cơ sở chăn nuôi rất lớn. Trừ các trang trại chăn nuôi bò sữa, trại giống lợn của các công ty, tập đoàn trực tiếp quản lý có đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật tốt có thể thực hiện được kỹ thuật kiểm kê và áp dụng nghiêm túc các quy trình giảm phát thải nhà kính; còn phần lớn các trại chăn nuôi trong sản xuất của chúng ta chưa đáp ứng được yêu cầu này.
Thứ tư, hiện nay, số lượng các tổ chức dịch vụ và chuyên gia trong nước có đủ trình độ và kinh nghiệm hướng dẫn việc kiểm kê và các biện pháp kiểm soát khí nhà kính lĩnh vực chăn nuôi rất ít, cần có thời gian để đào tạo.
Từ những lý do nêu trên, Hội Chăn nuôi Việt Nam đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường chưa đưa lĩnh vực, cơ sở chăn nuôi vào danh mục phải kiểm kê khí nhà kính trong giai đoạn hiện nay, ít nhất cũng là từ nay tới năm 2027.
Việc lùi thời gian để các cơ quan quản lý, các đơn vị dịch vụ và người chăn nuôi có thêm điều kiện làm quen, tiếp thu được kiến thức, công nghệ phù hợp, cải tạo chuồng trại và chuẩn bị các nguồn lực để có thể thực thi được những vấn đề còn rất mới mẻ và phức tạp này.
Cũng theo ông Nguyễn Xuân Dương: Trên thế giới, nhiều quốc gia đã yêu cầu các trang trại chăn nuôi phải kiểm kê khí nhà kính, nhưng theo lộ trình từ lúc yêu cầu đến khi bắt buộc thực hiện là 5 năm.
Ở nước ta, ông Dương cũng kiến nghị nên có lộ trình để các doanh nghiệp, trang trại chăn nuôi có thời gian, điều kiện làm quen, tiếp thu được kiến thức, công nghệ phù hợp, cải tạo chuồng trại và chuẩn bị các nguồn lực để có thể thực thi được những vấn đề rất còn mới mẻ và phức tạp này.

Giải pháp nào phù hợp?
Theo bà Nguyễn Quỳnh Hoa, Trưởng phòng Phòng Khoa học Công nghệ, Môi trường và Hợp tác quốc tế (Cục Chăn nuôi – Bộ NN & PTNT): Để vừa đảm bảo phát triển kinh tế vừa hạn chế tác động tới môi trường, nhiều giải pháp đã cho thấy hiệu quả thực tiễn như áp dụng công nghệ xử lý thu hồi năng lượng, các mô hình phân bón hữu cơ, trang trại tuần hoàn, giảm phát thải.
Sau cam kết tại COP 26, Chính phủ Việt Nam đã có văn bản quy phạm pháp luật rất đầy đủ bao gồm Luật Chăn nuôi và các nghị định, các thông tư. Đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký phê duyệt Chiến lược Phát triển chăn nuôi giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Đề án “Phát triển công nghiệp chuồng trại và xử lý chất thải chăn nuôi là một trong 5 đề án trọng tâm của chiến lược. Đề án đòi hỏi các địa phương tập trung triển khai thực hiện và mở ra hướng mới cho chăn nuôi phát triển theo hướng kinh tế tuần hoàn đảm bảo hiệu quả, khắc phục nhanh tình trạng ô nhiễm môi trường, giảm phát thải, chuyển đổi năng lượng xanh, góp phần hình thành nền nông nghiệp phát thải thấp nhằm đạt mục tiêu của Chính phủ trong phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050”, bà Nguyễn Quỳnh Hoa nhấn mạnh.
Theo đóng góp do quốc gia tự quyết định của Việt Nam, tiềm năng của các biện pháp giảm phát thải liên quan đến ngành chăn nuôi trong cả giai đoạn 2021 – 2030 là 152,5 triệu tấn CO2 tương đương, chiếm 54% tổng tiềm năng giảm phát thải của lĩnh vực nông nghiệp.
Nhìn từ kinh nghiệm giảm phát thải khí nhà kính của các nước có ngành chăn nuôi tiên tiến như Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Thái Lan…, bà Hoa cho rằng, quản lý khí nhà kính và các yêu cầu báo cáo khí nhà kính của các quốc gia phát triển và đang phát triển luôn bao gồm các cơ sở công nghiệp, nông nghiệp trong các giai đoạn phải báo cáo.
Đây là yêu cầu của quá trình kiểm kê khí nhà kính theo hướng dẫn của IPCC, trong đó, ngành chăn nuôi có tỷ lệ khá lớn đối với tổng phát thải khí nhà kính quốc gia.
Các cơ sở chăn nuôi lớn được yêu cầu cung cấp số liệu hoặc lập báo cáo kiểm kê tùy thuộc phương thức quản lý của từng nước và hệ thống quản lý số liệu về phát thải khí nhà kính.
Khi đã có các báo cáo kiểm kê phát thải khí nhà kính, doanh nghiệp sẽ có nhận thức được các cơ hội giảm phát thải ngay trong quá trình sản xuất của mình (ví dụ: cải thiện hiệu suất sử dụng năng lượng, quản lý chất thải chăn nuôi để làm phân compost, thu hồi biogas đốt phát điện đáp ứng một phần nhu cầu điện năng của cơ sở chăn nuôi…).
Hiện, một số nước trên thế giới đã và đang phát triển các dự án carbon cho lĩnh vực chăn nuôi, đơn cử như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan đã phát triển và đăng ký thành công các dự án tín chỉ carbon cho các cơ sở chăn nuôi tại các nước này. Đây có thể là cơ hội rất tốt để các doanh nghiệp Việt Nam có thể phát triển dự án giảm phát thải, tăng nguồn thu cho doanh nghiệp và hướng đến phát triển bền vững, đóng góp cho mục tiêu giảm phát thải của quốc gia.

PGS. TS Cao Thế Hà, Trường Đại học Việt – Nhật, Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết: Để ngành chăn nuôi tại Việt Nam có thể phát triển bền vững, ngoài những vấn đề mang tính chuyên ngành (thức ăn, giống, công nghệ chăn nuôi, chuồng trại, phòng chống dịch bệnh, giết mổ, thị trường …) thì vấn đề môi trường-xử lý chất thải, mùi cũng đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là về tác động lên ý kiến xã hội. Nếu chạy theo các công nghệ xử lý chất thải truyền thống thì chi phí sẽ là rào cản khó vượt qua. Giải pháp là Kinh tế tuần hoàn, hay các Công nghệ “không thải” thu hồi tài nguyên từ chất thải (công nghệ “Không thải” GC-VN):
Trước hết về Thể chế (Luật, các Quy chuẩn để kiểm soát, các Chính sách để khuyến khích người chăn nuôi); Công nghệ để thực hiện, PGS. TS Cao Thế Hà nói thêm.
PGS. TS Cao Thế Hà phân tích: Trước năm 2000, ngành nông nghiệp ở nước ta phần lớn áp dụng công nghệ hồ chứa ít nhất 180 ngày cùng với đó là tái sử dụng tưới ruộng. Tuy nhiên, tưới ruộng phải theo Luật kiểm soát dinh dưỡng N, P. Tùy từng nơi, tùy loại cây trồng lượng N phải khống chế dưới 170-220 kg N/ha/năm, chỉ tưới vào thời điểm phù hợp (ít mưa).
Nhưng tại Mỹ: Về Thể chế họ có các Luật liên quan (nước, chăn nuôi), ít chú ý về thu hồi năng lượng, mặc dù họ có quan tâm phát triển công nghệ đốt, khí hóa (phân). Về Công nghệ XLNT họ có Chương trình phát triển EST ở Bang North Caroline (đứng thứ 3 nước Mỹ về số đầu lợn). Theo đó, nước-phân thải được đi ép tách làm hai dòng. Dòng rắn đi làm phân compost, dòng lỏng đi xử lý C, N, P. Công nghệ này cho phép tuần hoàn nước sau xử lý để ngâm phân trong chuồng. Sau áp dụng EST cải thiện môi trường nước, đất, không khí, hiệu quả chăn nuôi tăng, lợn chết giảm về số lượng.
EU: Một số nước (nhất là Đức) có chính sách Hỗ trợ điện tái tạo nên phát triển công nghệ Biogas-CHP (đồng phát nhiệt điện), áp dụng công nghệ màng để cô đặc nước thải làm phân NPK lỏng, có các Dự án tương tự EST ở Mỹ. Gần đây bắt đầu áp dụng công nghệ xử lý chất thải hữu cơ mới là HTC, rất hiệu quả đối với chất thải ướt khó đốt (phân-bùn, rác sinh hoạt hữu cơ…).
Tại Việt Nam, gần đây đang dần phổ biến nuôi lợn trong chuồng kín, có điều nhiệt. Công nghệ gom phân-nước tiểu qua sàn, ít tắm hoặc không tắm lợn. Phân ngâm, xả định kì. Công nghệ xử lý: Tách phân, phần rắn bán làm phân compost, dòng lỏng qua hầm biogas hoặc không, xử lý bằng công nghệ AO hoặc SBR, qua các hồ chứa, tái sử dụng ngâm phân/rửa chuồng. Thu hồi biogas phát điện đã có song còn chưa phổ biến. Chưa có nhà máy làm phân compost từ phân ép nên nhiều khi sử dụng tươi, phân chưa hợp quy, có nguy cơ phát sinh bệnh. Bộ NN & PTNT có Chương trình quản lý chất thải chăn nuôi tổng hợp (IWM) của Dự án Hỗ trợ nông nghiệp cac-bon thấp- LCASP 2013-2018 [“CD-02-2019_Chương trình QL Thải CN-Dự án LCASP 36pp”]. Theo đó: tách phân làm compost, áp dụng hầm biogas, dùng biogas phát điện. Ngoài ra, khuyến khích công nghệ chăn nuôi ít nước (ngâm phân, không tắm lợn).
Có thể thấy, khi áp dụng công nghệ trong xử lý chất thải, khí thải, nước thải từ chăn nuôi sẽ tạo ra nguồn tài nguyên phong phú như: Phân bón, Nước (không chỉ là nước cho lợn uống, tắm lợn, vệ sinh chuồng trại, nước còn cần cho suốt quá trình gieo trồng, chế biến thức ăn cho lợn, nước cho giết mổ); Năng lượng trong đó phải nói đến tiền năng năng lượng từ Carbon; Điện năng (lượng điện thu được hoàn toàn có thể bù chi phí điện xử lý chất thải của trang trại, phần dư phục vụ sản xuất); Nhiệt năng (lượng nhiệt thu được có thể phục vụ công tác xử lý chất thải). PGS. TS. Cao Thế Hà lưu ý: Con số lượng khí metan thu hồi thực tế phụ thuộc vào công nghệ yếm khí.
Rõ ràng, áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong chăn nuôi là một giải pháp bảo vệ môi trường, giảm phát thải, tận dụng được nguồn thải để biến chúng thành tài nguyên, tiết kiệm chi phí và cho hiệu quả kinh tế cao.