8:55 sáng 06/09/2024 45 lượt xem

Nếu thực hiện sớm quá thì khó bán hàng do giá cao nhưng muộn lại không vào được thị trường đích, đó là thế khó của doanh nghiệp dệt may trong thực hiện ESG.

Áp lực lớn từ thị trường nhập khẩu

Ông Lê Tiến Trường – Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Dệt may Việt Nam cho hay, do xuất khẩu phần lớn sản lượng, ngành dệt may chịu sự chi phối mạnh mẽ của các thị trường nhập khẩu, trong đó có về vấn đề môi trường, trách nhiệm xã hội. Việc chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn thực sự nan giải nhất là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, đây không phải là bài toán có lời giải chung.

Mục tiêu của ESG (E-môi trường; S-xã hội; G-quản trị) và kinh tế tuần hoàn đều hướng tới phát triển bền vững. Ngành dệt may có phát thải lớn, trung bình một năm có khoảng 100 triệu tấn rác thải rắn từ quần áo cũ. Trong đó, riêng Trung Quốc mỗi năm tạo ra khoảng 30 triệu tấn, Mỹ khoảng 20 triệu tấn. Chính bởi vậy, theo ông Trường, dệt may hiện là ngành có nhiều quy định, tiêu chuẩn liên quan tới kinh tế tuần hoàn và kinh tế xanh nhất trên thế giới.

Ở Mỹ đã có Đạo luật ngăn chặn lao động cưỡng bức người Duy Ngô Nhĩ từ năm 2021 nhằm giám sát chặt chẽ hơn chuỗi cung ứng, ngăn chặn sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực có lao động cưỡng bức. Quốc gia này cũng có luật về bảo vệ nhân viên ngành may buộc tất cả các nước sản xuất quần áo xuất khẩu vào Mỹ phải tuân thủ.

Ngoài những quy định đã có hiệu lực, hiện nay ở Mỹ đã đệ trình Luật thúc đẩy trách nhiệm và xây dựng thay đổi thiết thực trong tổ chức. Luật này yêu cầu các bên tham gia chịu trách nhiệm về vi phạm tiền lương để khuyến khích sản xuất có trách nhiệm; đặt mức lương tối thiểu theo giờ và loại bỏ mức lương từng phần.

Hay Luật trách nhiệm xã hội và bền vững thời trang tại Mỹ được đề xuất năm 2022 và chưa được thông qua. Luật yêu cầu các công ty thời trang lớn lập bản đồ chuỗi cung ứng, thiết lập và tiết lộ các mục tiêu ESG, đồng thời giải quyết tác động môi trường và xã hội từ hoạt động của mình.

Còn EU đưa ra Quy định về đóng gói và chất lượng đóng gói nhằm xem xét toàn bộ vòng đời bao bì và đảm bảo rằng tất cả các bao bì đều an toàn, bền vững, có thể tái chế. Đặc biệt EU đưa ra quy định Quyền sửa chữa, tức là người sản xuất sản phẩm thời trang có trách nhiệm sửa chữa sản phẩm lỗi nếu người tiêu dùng có yêu cầu…

Thế khó của doanh nghiệp

Ông Trường cũng cho biết, các tiêu chuẩn về ESG, kinh tế tuần hoàn, tiêu chuẩn xanh đều có thể được EU điều chỉnh thời gian có hiệu lực. Điều này dẫn tới khả năng nếu doanh nghiệp đầu tư thực hiện các tiêu chuẩn sớm sẽ khó bán được hàng do sản phẩm xanh có giá thành cao nhưng nếu chậm lại không vào được thị trường đích.

Thực tế giai đoạn Covid và kinh tế khó khăn vừa qua, mặt hàng thời trang giống như thực phẩm xanh bị ế một phần do cắt giảm chi tiêu của người tiêu dùng, một phần do “đắt”. “Chúng tôi có những đối tác nhập về xơ tái chế giá trị 10-20 triệu USD để trong kho cả năm không sản xuất do không có đơn đặt hàng”, ông Trường thông tin. Điều đó cho thấy, xu thế xanh đã được cả thế giới công nhận nhưng không phải là một đường thẳng tuần tự để tiến và ra chính sách, quy định, doanh nghiệp bám vào đó để làm.

Riêng với Tập đoàn Dệt may Việt Nam, tập đoàn đã áp dụng các giải pháp giảm thiểu carbon bằng việc đo lường dấu chân carbon trong vòng đời sản phẩm, sẽ có 2 tổng công ty lớn thực hiện xong trong năm 2024. Đồng thời xây dựng chiến lược sản xuất xanh, tuần hoàn, song bước đi hết sức cân nhắc, bám theo thị trường.

Bên cạnh đó, cũng như doanh nghiệp dệt may trong nước, thách thức với tập đoàn còn rất lớn. Đó là hành lang pháp lý trong nước còn hạn chế. Chưa có chính sách, quy định cụ thể cho ngành dệt may về kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh hay ESG. Các quy định về kiểm kê khí nhà kính, thuế carbon… vẫn chậm hơn lộ trình áp dụng quốc tế.

Hệ thống tài chính cho phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, tài chính ESG còn non trẻ, khiến các dự án dệt may xanh, bền vững gặp nhiều khó khăn trong huy động vốn. Thiếu các chính sách ưu đãi cụ thể để khuyến khích phát triển dệt may tuần hoàn, bền vững, ví dụ như chính sách quy hoạch và phát triển khu công nghiệp xanh cho ngành sợi.

Cùng đó là hạn chế về nguồn cung nguyên liệu xanh, bền vững phục vụ sản xuất. Các loại xơ hóa học tổng hợp hiện đang chiếm tới 65% tổng sản lượng toàn cầu, xơ thực vật (bao gồm bông) chỉ chiếm 27%.

Thiếu chuẩn hóa trong dữ liệu ESG để báo cáo, đặc biệt là về môi trường và xã hội. Chưa xác định được chuẩn báo cáo ESG để phục vụ được cho nhiều thị trường, khách hàng.

Nhằm giúp doanh nghiệp xác định đúng thời điểm và dễ dàng đầu tư thực hiện ESG, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, lãnh đạo Vinatex đề nghị, về chính sách vĩ mô, thể chế hóa các tiêu chuẩn ESG, kinh tế tuần hoàn trong ngành dệt may với lộ trình phát triển và mục tiêu cụ thể, phù hợp với lộ trình thế giới. Gắn vai trò các bên liên quan và cơ chế tài chính để thực hiện mục tiêu (hợp tác công tư, tài chính xanh…). Có chính sách hỗ trợ, khuyến khích doan nghiệp thông qua các công cụ thuế, tín dụng, đất đai, đặc biệt chính sách cần có bước đi cụ thể.

Về công nghệ, đầu tư và tài chính, cần các nghiên cứu dẫn đường và chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp. Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực R&D để làm chủ công nghệ, chuyển giao công nghệ tiên tiến từ đối tác. Khuyến khích phát triển các công cụ tài chính xanh, mô hình hợp tác liên doanh để tận dụng lợi thế kinh tế theo quy mô và đa dạng hóa rủi ro.

Cùng đó, xác định khoảng cách kỹ năng trong doanh nghiệp để xây dựng chương trình đào tạo phù hợp quy hoạch nguồn nhân lực cấp quốc gia để phục vụ quá trình chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh. Xây dựng mạng lưới liên ngành, liên doanh nghiệp để chia sẻ kiến thức và nhân lực.

Đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông, xây dựng văn hóa tiêu dùng các sản phẩm xanh, bền vững, ủng hộ doanh nghiệp sản xuất có đạo đức, trách nhiệm.

Nguồn: Công thương